Núi Đôi Quản Bạ
Danh thắng Núi Đôi Quản Bạ thuộc thôn Nà Khoang, thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, cách trung tâm thành phố Hà Giang 46km về phía Bắc theo con đường quốc lộ 4C Hà Giang - Đồng Văn. Tên nhân dân thường gọi Núi Đôi, tiếng của địa phương gọi là "Núm Riến" (nghĩa là Vú Tiên).
Núi Đôi nằm chếch bên phải của thung lũng thị trấn Tam Sơn, xung quanh là những dãy núi hùng vĩ bao quanh tạo thành một lòng chảo, có khí hậu mát mẻ ôn hoà quanh năm, đất đai trù phú, có dòng sông Miện chảy qua, một thị trấn thơ mộng giữa vùng núi cao hiểm trở của phía Bắc tỉnh Hà Giang. Có độ cao trung bình so với mực nước biển là 1.000m, chu vi Núi Đôi là 995,6m, được hình thành do quá trình kiến tạo biến đổi của vỏ Trái đất, với 2 quả núi tròn đều với diện tích xấp xỉ 3,6ha.
Núi Đôi Quản Bạ gắn với những câu chuyện truyền thuyết được đồng bào các dân tộc nơi đây lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến tận hôm nay.
Truyền thuyết kể lại rằng: "Ngày xưa, có một đôi trai gái yêu nhau, chàng trai khổng lồ đem lòng yêu người con gái xinh đẹp nơi đây, mặc dù ở tận nơi xa, nhưng chàng trai luôn vượt non cao, suối sâu để đến với người yêu nơi thung lũng xinh đẹp này. Gia đình người con gái muốn thử sức chàng trai miền sơn cước để kén rể, bèn thách rằng, nếu chàng trai ngăn được sông Đông Hà chảy ngược vào thung lũng nơi gia đình cô gái ở (ngày nay là thị trấn Tam Sơn) thì gia đình sẽ chấp nhận chàng làm con rể. Chàng khổng lồ nhận lời, mỗi bữa ăn 7 chõ cơm, ngày đêm gánh những quả núi về thung lũng để đắp dòng chảy ngăn sông Đông Hà về thung lũng. Vào một ngày, đang miệt mài gánh đất để ngăn sông, chàng trai nhận được tin mẹ chết, quá đột ngột và đau khổ, quang gánh của chàng khổng lồ va vào dãy núi cao bị gãy, vội vã chàng chạy về quê chịu tang mẹ, không biết vì lý do gì mà chàng khổng lồ đi mãi không trở lại. Người con gái chung thuỷ đã mỏi mòn chờ đợi người yêu, ngày ngày nàng đi quanh thung lũng để ngắm những thành quả đang dang dở của chàng, mắt nàng luôn hướng về cổng trời mong ngóng chàng trai trở lại, nàng ngả lưng nơi gần chiếc đòn gánh của người yêu để trông chờ chàng và chờ đợi quá lâu đến nỗi nàng đã hoá thân thành núi để mãi mãi đợi chờ người yêu
Đòn gánh của chàng khổng lồ bị gãy hoá thành dãy núi đòn gánh ông khổng lồ, tiếng địa phương gọi là dãy núi "Phia Pới". Giữa thị trấn Tam Sơn hiện nay có ba ngọn núi do chàng khổng lồ gánh về để ngăn sông, nhân dân nơi đây gọi tên ba ngọn núi là: "Pu Tỉnh" (núi Sáng), "Pu Vang" (núi Vàng ), "Pu Phia Nú" (núi Đá chuột). Bước chân chạy vội vã của chàng khổng lồ tạo thành 9 cái hồ nước sâu ở các làng còn đó đến ngày nay, nhân dân nơi đây gọi tên các hồ là: Sum Pưn, Thâm Rí, Thâm Lâu, Thâm Nán, Thâm Nậm Đăm, Thâm Lùng Pết... 4 hồ khác bị lấp do san ủi làm nhà. Còn người con gái hoá thân thành núi chờ đợi người yêu, ngày nay vẫn còn đó Núi Đôi - Hiện thân bộ ngực căng tròn của người con gái".
Câu chuyện truyền thuyết thứ hai, các cụ ở đây kể: "Ngày xưa, ở sâu trong núi có bản Ha Lịa, có người con gái lỡ thì tên gọi Hạ Ly, gần như cả cuộc đời mình nàng bận rộn việc chăm lo cho mọi người trong bản, ai gặp khó khăn là nàng đến giúp không kể ngày đêm hay mưa gió, mà bản Ha Lịa rất nghèo, hầu như ai cũng cần giúp đỡ.
Dạo ấy, đột nhiên trời mưa to kéo dài suốt mấy ngày. Nhìn các bà mẹ trẻ chăm chút cho những đứa con của mình, nàng chạnh lòng và bỗng thấy cô đơn. Lần đầu tiên trong cuộc đời nàng có giây phút chợt nghĩ đến bản thân mình - Nàng ước có một đứa con để chăm sóc, để được làm mẹ một lần. Lời ước của nàng được bầy én tâu lên Ngọc Hoàng. Biết chuyện, Nàng Tiên thứ mười tám tình nguyện xin Ngọc Hoàng xuống trần. Cuối mùa đông năm ấy, Hạ Ly đã chuyển dạ, nàng sinh được một bé gái xinh xắn, càng lớn càng đẹp, đến tuổi mười lăm thành thiếu nữ đẹp như tiên giáng trần, bầy ong bướm chẳng thiết gì tới hoa khi thấy bóng dáng nàng đi qua, chim chóc trên cây quên hót khi nghe tiếng hát trong trẻo như nước suối, nhẹ như mây trôi của nàng, khiến làn gió cũng phải ngập ngừng nửa ở nửa đi...
Cách đó hai dãy núi, có tên Chúa đất giàu có, gia súc của nhà Chúa đất lùa về chật kín cả thung lũng, của cải trong nhà chật kín mười mấy gian. Ông ta có tới mười bốn bà vợ. Điều trớ trêu là ông không có khả năng làm chồng, nên ông lấy vợ về nhằm thoả mãn ý thích và để thay người làm, người hầu trong gia đình mà chẳng phải trả một xu tiền công! Với lòng tham và ham muốn là người giàu có nhất thiên hạ, mọi thứ quý giá, mọi cô gái đẹp xa gần, lão đều dùng tiền bạc, quyền lực của một chúa đất chiếm về làm của riêng. Khi nghe tin đồn về cô gái đẹp bản bên cách hai dãy núi, tức khắc lão vội vàng tìm đến. Vừa nhìn thấy nàng, lão ta vô cùng sửng sốt và chết lặng trước vẻ đẹp tuyệt trần của người con gái mà không tin vào mắt mình, lặp bặp mãi, lão mới bật được thành lời để hạ lệnh cho đám tuỳ tùng bắt về làm vợ. Lão đưa nàng vào ở ngôi nhà chính, không cho làm bất kỳ một công việc gì, khác hẳn ở sự đối xử so với các bà vợ trước luôn phải tất bật làm việc từ sáng sớm tới tận đêm khuya... Lão không dám đi đâu và cấm kẻ hầu người hạ không được bén mảng đến gần nàng, cấm không cho ai trộm ngắm nhan sắc của nàng, ai vi phạm sẽ bị lão xử tội và bị chọc mù đôi mắt.
Thời gian sau nàng có mang và sinh hạ được một bé trai bụ bẫm, lão vô cùng tức tối, suốt ngày hầm hè, tra khảo xem bố đứa trẻ là ai. Lão càng tức điên lên khi nghĩ rằng, lão đã cảnh giác khi cho toàn bộ đám trai tráng theo hầu lão đi chăn trâu bò mãi tận trên rừng, làm việc quanh nhà chỉ có lũ đàn bà con gái. Lão càng không thể chịu nổi khi nhìn đứa trẻ bụ bẫm khôi ngô ngày một lớn, mấy lần lão định mang đứa trẻ ra sau núi ném xuống vực cho hả giận, nhưng lão không nỡ và sợ là sẽ mất nàng, vì lời của nàng: " Nếu đứa trẻ bị làm sao thì ta cũng không thiết sống nữa". Lão không muốn nàng chết vì nàng là tài sản vô giá, là niềm kiêu hãnh của lão, mặc dù lúc này niềm kiêu hãnh đó đã vơi đi mấy phần, dẫu vậy lão không thể chịu đựng được khi không còn nàng để ngắm, đôi khi cơn tức cứ nghẹn lên đến cổ, đến mắt, muốn trào ra mà lão vẫn phải kìm xuống, tự dối mình và tươi cười, nuốt hận vào trong... Sau khi sinh con nàng càng xinh đẹp, nét đẹp càng mặn mà đằm thắm hơn. Lão nhìn nàng bằng con mắt như muốn lồi ra, lão không dám đi đâu, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, bám riết nàng không rời nửa bước.
Vào một buổi sáng, lão bắt gặp một chàng trai đứng ở sau nhà có khuôn mặt thanh tú, cường tráng. Lão hô hoán người ở đuổi bắt, nhưng chàng trai đã phi thân cùng gió. Nàng được đưa ngay vào một phòng đặc biệt để tránh sự nhòm ngó của người lạ, phòng có hai lần cửa, chỉ mình lão có chìa khoá để mở, không ai được bước chân vào.
Một hôm nàng đã ôm con trốn ra khỏi nhà tên Chúa đất, do một ngày có sự chểnh mảng của lão và sự giúp đỡ của một người hầu. Nàng men theo con đường mòn chạy thẳng vào rừng. Nàng cứ đi, đi mãi, không dám ngoái đầu nhìn lại. Đứa con trên tay ngày một nặng trĩu, sức nàng đang đuối dần, đứa con ngằn ngặt khóc, nó đòi bú liên tục. Nó đang đói, nàng biết vậy, nhưng nàng cũng đang kiệt sức vì mệt và đói, nàng khuỵu xuống, không thể đi được nữa. Nàng nhìn đứa con đang bú mà nước mắt trào ra, nàng đã khóc rất nhiều, thân thể nàng tan dần thành dòng sữa ngọt lành. Khi đứa con bú no và đủ lớn thì người mẹ đã không còn nữa, ở lại bên bé là đôi bầu sữa căng tròn, thơm ngát... Và đến tận hôm nay vẫn còn đó hai bầu sữa căng tròn của người mẹ hoá thành hai ngọn núi...".
Lại có truyền thuyết khác kể rằng: "Ngày xửa ngày xưa, có một Nàng Tiên trên trời rất ham chơi, thích khám phá cảnh đẹp nơi trần thế, Nàng đi khắp nơi mọi chốn, từ biển cả, đến các dãy núi đá cao, rừng sâu, đến khi đã mỏi đôi cánh, mỏi con mắt thì Nàng tới một thung lũng đẹp, quanh năm mát mẻ, trăm hoa đua nở, hoa đào đỏ rực xen lẫn hoa lê trắng muốt khi xuân về; chim chóc kéo nhau về đây đua tiếng hót, ong bướm bay lượn đủ màu, xa xa lại có dòng sông trong xanh uốn lượn, những thảm cỏ bằng phẳng xanh mướt, Nàng liền chọn nơi đây để nghỉ chân. Nhưng với cảnh đẹp tuyệt trần, Nàng đã quên hết mệt mỏi, thả sức cùng ong bướm ngắm muôn hoa tươi sắc trong nắng xuân, cao giọng hát cùng các loài chim muông, xếp ba ngọn núi thành chân kiềng để nấu thức ăn, tắm mình xuống dòng sông trong mát, rồi thoải mái ngả mình trên thảm cỏ mềm với làn gió mát. Nàng đã ngủ quên và hoá thân thành núi, vĩnh viễn ở lại với thung lũng xinh đẹp này- Để lại nơi trần thế đôi ngọn núi tròn căng - bộ ngực của nàng tiên ngủ quên"... Nhân dân nơi đây không biết từ bao giờ gọi ngọn núi đó là "Pu Già Kéo" (vú bà tiên).Các truyền thuyết gắn với những gì thiên nhiên ban tặng được gửi gắm vào câu chuyện những ước muốn của đồng bào các dân tộc thiểu số nơi vùng cao về việc cải tạo, chế ngự thiên nhiên phục vụ sản xuất (mà ở đây là mong ước có nguồn nước tưới tiêu phục vụ đời sống con người) để có cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Trong truyền thuyết còn tôn vinh sự chung thuỷ, tôn vinh tình yêu đôi lứa. Có thể nói, mỗi cảnh sắc, mỗi địa danh nơi đây đều được gắn với một huyền thoại hoặc sự tích mang đậm sắc thái của cư dân miền núi. Mỗi tên sông, tên núi nơi đây đều mang trên mình tấm áo huyền thoại. Những truyền thuyết, sự tích đó được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, đời nối tiếp đời, đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hoá dân gian của đồng bào các dân tộc anh em sinh sống ở nơi vùng đất biên cương của Tổ quốc Việt Nam.
Có thể nói, Núi Đôi Quản Bạ là một danh thắng độc nhất vô nhị trên đất nước Việt Nam. Tại đây, chúng ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp từ sự kiến tạo tuyệt vời của thiên nhiên, mà còn được khám phá truyền thống văn hoá rất giầu bản sắc của đồng bào các dân tộc sống quanh khu vực Núi Đôi. Với vị trí thuận lợi và cách trung tâm tỉnh lị không xa, Núi Đôi Quản Bạ là một địa chỉ du lịch hấp dẫn, lý tưởng đối với du khách thập phương vốn yêu thiên nhiên và vẻ đẹp tiềm ẩn của bản sắc văn hoá các dân tộc Hà Giang - mảnh đất địa đầu của Tổ quốc. Núi Đôi Quản Bạ được xếp hạng danh lam thắng cảnh cấp quốc gia vào ngày 16/11/2009.